Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học trong đất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Để đảm bảo tính đồng bộ và liên kết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh cần nhanh chóng ban hành tiêu chuẩn quốc gia về xây dựng cơ sở dữ liệu đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp bị sói mòn, thiếu dinh dưỡng gây ảnh hưởng lớn tới quá trình sản xuất nông nghiệp. Ảnh minh họa
Theo thống kê, cả nước hiện có 11,8 triệu ha đất bị thoái hóa, trong đó 5,1 triệu ha (chiếm 43%) là đất nông nghiệp. Tình trạng này tập trung chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ. Đất đồi núi bị xói mòn, chua hóa; đất đồng bằng sông Hồng thiếu hụt chất hữu cơ do không bổ sung đủ phân bón hữu cơ; trong khi đất ở Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long bị bạc màu, thiếu dinh dưỡng và tích tụ dư lượng hóa chất cao. Ngoài ra, đa dạng sinh học trong đất cũng đang suy giảm đáng báo động.
Bên cạnh đó, việc sử dụng đất nông nghiệp tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức như diện tích canh tác bị thu hẹp, đất thoái hóa, sử dụng phân bón hóa học không hợp lý, thiếu dữ liệu về sức khỏe đất và các nghiên cứu còn rời rạc. Hiện tại, Việt Nam chưa có một chương trình quốc gia toàn diện về sức khỏe đất và dinh dưỡng cây trồng.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sức khỏe đất là nền tảng cho nông nghiệp bền vững, giúp tối ưu hóa quản lý dinh dưỡng cây trồng, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng nông sản. Do đó, việc ban hành tiêu chuẩn quốc gia về dữ liệu đất nông nghiệp là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất và liên thông trong quản lý. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành nhằm cải thiện sức khỏe đất và cây trồng, mà còn là cam kết quốc gia trong việc thực hiện các mục tiêu quốc tế về phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng.
Đào tạo lao động không thể tách rời doanh nghiệp nơi trực tiếp sử dụng và đánh giá hiệu quả làm việc của người lao động.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu về nâng cao năng suất lao động đang đặt ra cấp thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo bà Thái Thu Xương – Phó Chủ tịch Thường trực Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, để đạt mục tiêu này, doanh nghiệp không thể chỉ đóng vai trò thụ động mà phải trở thành chủ thể trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Doanh nghiệp phải trở thành chủ thể trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Theo bà Xương, thay vì chỉ đặt hàng cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cần có các chương trình đào tạo ngắn hạn trực tiếp tại doanh nghiệp, nhất là đào tạo kỹ năng mềm, ngoại ngữ, gắn liền với thực hành.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Hạnh – Giám đốc Công ty cổ phần Dệt may Lạng Giang cho rằng đào tạo lao động cần bắt đầu từ chính nơi sử dụng lao động. Công ty ông đã đầu tư dây chuyền bán tự động thay thế dần công đoạn thủ công, giúp công nhân chỉ cần bấm nút, đưa bán thành phẩm vào máy để tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, quá trình đầu tư công nghệ hiện đại, xây dựng hệ thống dữ liệu đòi hỏi nguồn lực lớn và chiến lược lâu dài, do đó rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước.
Ông Hạnh đề xuất cần rà soát lại các khoản đóng góp bắt buộc của doanh nghiệp, loại bỏ những chi phí không cần thiết để tăng nguồn lực cho việc đầu tư công nghệ và trả lương nhân công. Ông nhấn mạnh, năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào tay nghề mà còn vào tinh thần, ý thức kỷ luật và sự gắn bó của người lao động. Khi coi doanh nghiệp là nơi gắn bó lâu dài và tự hào, người lao động sẽ làm việc hiệu quả hơn.
Không chỉ các doanh nghiệp nội địa, khối doanh nghiệp FDI cũng đang chủ động đón đầu nguồn nhân lực chất lượng cao. Ông Henry Chien – Giám đốc nhân sự Công ty TNHH LITEON Việt Nam cho biết, công ty đang mở rộng sản xuất tại Việt Nam ở các lĩnh vực công nghệ cao như điện toán đám mây, chất bán dẫn, điện tử ô tô, 5G và trí tuệ nhân tạo vạn vật (AIoT). Nhà máy mới tại Quảng Ninh sẽ cần thêm khoảng 20% nhân sự là kỹ sư, giám sát và quản lý sản xuất.
Nếu doanh nghiệp là trung tâm đào tạo, vừa cập nhật công nghệ vừa hiểu rõ yêu cầu thực tiễn, sẽ rút ngắn khoảng cách giữa trường học và nhà máy. Khi đó, năng suất lao động không chỉ tăng nhờ kỹ năng, mà còn từ sự chủ động và trách nhiệm của cả người lao động lẫn chủ sử dụng lao động.
Tại nhiều doanh nghiệp sản xuất, việc áp dụng TPM kết hợp các công cụ cải tiến, hệ thống quản lý phù hợp đã giúp giảm đáng kể thời gian dừng máy, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện tinh thần làm việc của người lao động.
Doanh nghiệp hưởng lợi khi áp dụng TPM kết hợp các công cụ cải tiến phù hợp. Ảnh minh họa.
TPM (Total Productive Maintenance – Bảo trì năng suất toàn diện) là một trong những công cụ cải tiến quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu suất thiết bị, giảm thiểu sự cố và duy trì sản xuất liên tục. Khác với phương pháp bảo trì truyền thống chỉ do bộ phận kỹ thuật đảm nhiệm, TPM nhấn mạnh sự tham gia của toàn bộ nhân viên – từ công nhân vận hành đến bộ phận quản lý – trong việc chăm sóc và giữ gìn thiết bị như tài sản chung.
Mục tiêu của TPM không chỉ là sửa chữa khi có hỏng hóc, mà là phòng ngừa, phát hiện sớm và chủ động cải tiến, nhằm đảm bảo máy móc luôn trong tình trạng hoạt động tối ưu nhất. TPM thường được triển khai cùng với các công cụ như 5S, Kaizen, Lean,… để tạo nên môi trường sản xuất gọn gàng, hiệu quả và giảm lãng phí.
Tại Công ty THACO Interior (Ninh Bình) – doanh nghiệp đứng đầu trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp và phân phối ô tô tại Việt Nam. THACO Interior đã tích hợp một cách toàn diện nhiều hệ thống quản lý khác nhau như IATF 16949/ISO 9001, ISO 14001 và TPM nhằm cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt hơn, phù hợp thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Hay tại Công ty cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền Phong (TP. Hải Phòng), thời gian qua, nhờ tích hợp các công cụ cải tiến năng suất (5S, TPM) với ISO 9001, năng suất lao động của Công ty được nâng cao; phương tiện, máy móc, thiết bị đạt hiệu suất trên 90%. Đặc biệt, sự tích hợp TPM với ISO 9001 là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp này nâng cao hiệu suất và khả năng cạnh tranh cho sản phẩm.
Các chuyên gia đánh giá, tại nhiều doanh nghiệp sản xuất, việc áp dụng TPM kết hợp các công cụ cải tiến, hệ thống quản lý phù hợp đã giúp giảm đáng kể thời gian dừng máy, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện tinh thần làm việc của người lao động. Từ đó, xây dựng văn hóa làm việc chủ động, trách nhiệm và hướng tới phát triển bền vững.
MFCA là công cụ cải tiến giúp doanh nghiệp tính toán và kiểm soát chi phí liên quan đến dòng nguyên vật liệu, bao gồm cả phần tạo ra giá trị và phần lãng phí. Nhờ đó, doanh nghiệp có cơ sở để cải tiến quy trình, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững, đặc biệt phù hợp trong các ngành sử dụng hiều tài nguyên.
Công cụ MFCA đặc biệt phù hợp với các ngành sử dụng nhiều tài nguyên. Ảnh minh họa.
Như tại Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Đầu tư Tam Minh, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất gỗ cũng như các sản phẩm nội thất đã áp dụng thành công MFCA. Trước đây, gỗ lưu kho chưa được bố trí ở nơi thích hợp, dẫn tới trong điều kiện thời tiết nóng ẩm gỗ bị mốc xanh, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; quãng đường vận chuyển gỗ chưa hợp lý, gây lãng phí; thiếu biện pháp an toàn trong quá trình vận chuyển gây thiệt hại kinh tế.
Sau khi phân tích sơ đồ dòng chảy nguyên liệu bằng MFCA, lập kế hoạch cải tiến sản phẩm, cũng như quy trình liên quan, hiệu quả cho thấy rất rõ rệt. Chi phí sản xuất thấp hơn so với trước; chất lượng sản phẩm hoàn thiện tốt nhờ quá trình bảo quản gỗ phù hợp với điều kiện thời tiết; quá trình vận chuyển nhanh, chi phí giảm nhờ tích hợp việc đóng gói và vận chuyển…
Hay tại Công ty Cổ phần kết cấu thép Đại Dũng, để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thi trường, Công ty đã quyết định áp dụng MFCA. Trước khi áp dụng MFCA, nguyên vật liệu của công ty như thép thấm, thép hình chưa được kiểm soát chặt chẽ và bị lãng phí, tạo ra sản phẩm sai hỏng, chờ tận dụng và có những sản phẩm không tận dụng được. Sau khi áp dụng MFCA, đại diện công ty khẳng định, MFCA là giải pháp quan trọng giúp doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất, loại bỏ khuyết điểm, giảm lãng phí.
Các chuyên gia khẳng định, áp dụng thành công MFCA tại doanh nghiệp cụ thể đã phản ánh một bức tranh chân thực về hiệu quả sử dụng nguyên nhiên vật liệu của doanh nghiệp, giúp họ thấy rõ mảng tối về việc lãng phí nguyên/nhiên vật liệu, điều mà có thể họ từng nghĩ tới nhưng chưa biết làm cách nào để đo đếm chính xác. Bên cạnh đó, hoạt động này còn giúp doanh nghiệp nâng cao ý thức về cải tiến năng suất, chất lượng, áp dụng các công cụ tiên tiến trong sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp và áp lực phát triển bền vững ngày càng gia tăng, việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh không chỉ là xu thế mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Trong thời đại biến đổi khí hậu toàn cầu, mô hình phát triển kinh tế không thể tách rời khỏi bảo vệ môi trường. Xu hướng “sản xuất xanh” (green production) được xem là chiến lược quan trọng giúp các doanh nghiệp đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế – xã hội một cách bền vững, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động xấu đến hệ sinh thái.
Sản xuất xanh không chỉ dừng lại ở việc áp dụng công nghệ mới mà còn bao hàm việc tối ưu hóa toàn bộ chuỗi giá trị, từ việc lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào đến quy trình sản xuất, phân phối và tái chế sản phẩm cuối vòng đời. Mục tiêu là giảm thiểu lượng khí thải, chất thải rắn và nước thải ra môi trường, đồng thời sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất.
Sản xuất xanh là chìa khóa mở cánh cửa phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng và chủ động đón đầu xu thế sản xuất xanh. Họ không ngần ngại đầu tư vào công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Điển hình là Công ty Yến sào Khánh Hòa. Đơn vị này đã đi đầu trong việc áp dụng công nghệ tự động hóa, kết hợp với việc tuân thủ các tiêu chuẩn quản lý chất lượng và môi trường hàng đầu thế giới như ISO 9001, ISO 14001, ISO 22000, HACCP và BRCGS. Không chỉ dừng lại ở đó, Yến sào Khánh Hòa còn cam kết một quy trình sản xuất xanh từ nguyên liệu (100% tự nhiên, không hóa chất, không chất bảo quản) cho đến sản phẩm cuối cùng. Công ty cũng đặc biệt chú trọng phát triển bao bì thân thiện môi trường và lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái, đồng thời dành nguồn lực cho công tác bảo tồn và phát triển quần thể chim yến, hướng tới giá trị bền vững dài lâu.
Trong ngành dệt may – một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam – Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) cũng đã tích cực thúc đẩy mô hình sản xuất xanh. VITAS khuyến khích các doanh nghiệp hội viên giảm thiểu chất thải trong sản xuất và chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo. Đồng thời, Hiệp hội còn hợp tác với Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) triển khai dự án “Xanh hóa ngành Dệt May Việt Nam” nhằm cải thiện quản lý nước và năng lượng một cách bền vững, hỗ trợ các khu công nghiệp tiếp cận “tín dụng xanh” để đầu tư vào công nghệ sản xuất thân thiện môi trường.
Việc chuyển đổi sang sản xuất xanh mang lại nhiều lợi ích rõ rệt, từ việc giảm chi phí vận hành thông qua sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế (đặc biệt là các thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn xanh cao), đến việc cải thiện hình ảnh thương hiệu và đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản phẩm bền vững.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào công nghệ và quy trình sản xuất xanh thường đòi hỏi nguồn vốn ban đầu lớn và trình độ quản lý, vận hành cao. Đây là một rào cản đáng kể mà nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải đối mặt.
Do đó, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa sản xuất xanh và hướng tới năng suất xanh trên diện rộng, rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước, trong đó là các chính sách về vốn tín dụng ưu đãi, giảm lãi suất cho các khoản vay đầu tư công nghệ xanh, cùng với các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam vững bước trên hành trình phát triển bền vững.
Ngày 14 tháng 6 năm 2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (TC&QCKT). Việc thông qua đạo luật này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam, đồng thời mở ra không gian mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế số.
Lãnh đạo Quốc hội và Tổ soạn thảo tại phiêu họp thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TC&QCKT ngày 14/6/2025
Luật TC&QCKT được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, Luật đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết quốc tế trong Hiệp định TBT/WTO và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời kế thừa những thành quả của Luật TC&QCKT 2006, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển hiện nay. Sau đây là một số điểm mới, đột phá của Luật:
– Chiến lược tiêu chuẩn quốc gia lần đầu tiên được luật hóa, trở thành công cụ hoạch định dài hạn nhằm phát triển hệ thống tiêu chuẩn hiện đại, hài hòa với quốc tế, phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia, phù hợp thông lệ quốc tế.
– Hoàn thiện quy định pháp luật, phân biệt giữa tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật nhằm bảo đảm tính đồng bộ, linh hoạt trong xây dựng, áp dụng và nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước.
– Hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, tạo nền tảng số cho quản lý nhà nước và hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
– Quy trình xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được cải cách toàn diện, rút ngắn thời gian, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và khuyến khích sự tham gia của hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia.
– Cơ chế công bố hợp quy được đơn giản hóa, chuyển sang hình thức thông báo trực tuyến, giảm thủ tục hành chính, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
– Thúc đẩy xã hội hóa, tăng cường quyền tham gia của khu vực tư nhân, mở rộng quyền xây dựng, áp dụng đối với tiêu chuẩn hiệp hội, phù hợp thông lệ quốc tế.
– Đẩy mạnh hậu kiểm thay cho tiền kiểm, gắn với chuyển đổi số, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giảm gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp.
– Cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy hội nhập quốc tế, đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quyền tiếp cận các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xuất khẩu.
Việc thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TC&QCKT không chỉ là bước tiến về kỹ thuật lập pháp, mà còn thể hiện rõ quyết tâm chính trị trong thể chế hóa các định hướng chiến lược phát triển đất nước, phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia đồng bộ, hiện đại, là công cụ thiết yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và khẳng định vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Lãnh đạo Quốc hội và Tổ soạn thảo chụp ảnh lưu niệm tại Hội trường
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều chỉnh của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã được Quốc hội thông qua chiều 18/6/2025, theo đó đổi mới phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã cơ chế hóa theo tài khoản chủ của Đảng tại Quyết định 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, Nghị quyết quyết định số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số. Luật sửa đổi, bổ sung Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã được xây dựng xây dựng phương thức quản lý chất lượng mới như sau:
Thứ nhất, Luật đã đề xuất thay đổi cơ bản trong phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa: chuyển từ phân nhóm hành chính (nhóm 1, nhóm 2) sang phân loại sản phẩm, hàng hóa hóa theo ba hạn chế ro (thấp, trung bình, cao) để quản lý, theo hướng giảm tiền kiểm tra, tăng cường kiểm tra, phù hợp với thông tin quốc tế. Phân tích rủi ro dựa trên khả năng hoạt động đến sức khỏe, môi trường, khả năng kiểm soát chuỗi ứng dụng và cảnh báo từ tổ chức quốc tế, đồng thời tính toán khả năng quản lý của cơ quan nhà nước trong từng thời kỳ. Đây là bước chuyển bản cơ bản từ mô hình quản lý hành động chính sang mô hình quản trị dựa trên dữ liệu và đánh giá giá khoa học, có thể hiện tư tưởng cốt lõi lấy khoa học công nghệ làm công cụ quản trị quốc gia gia đình. Ngoài ra, Luật còn bổ sung quy định về quy tắc kiểm tra cơ sở tốt nhất giữa các Bộ, chuyên ngành trong quá trình thực thi tổ chức.
Thứ hai, Luật cũng đã nhanh chóng kiểm soát quy định về áp dụng luật và nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa hóa theo hướng dẫn quy định nguyên tắc chung về áp dụng luật để phù hợp với hệ thống luật hiện hành. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa xác định rõ cơ chế phân công, phân cấp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, theo đó giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan đầu mối trách nhiệm trách nhiệm chung. Các bộ, chuyên ngành, địa phương thực hiện theo phân công, đảm bảo trách nhiệm và tránh chồng chéo trong chức năng thực hiện. Chính phủ sẽ quy định nguyên tắc phân loại và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa dựa trên mức độ rủi ro, theo nguyên tắc mỗi sản phẩm, hàng hóa hóa chỉ làm một bộ, ngành quản lý.
Thứ ba, Luật đã xây dựng một nền tảng số lượng sản phẩm duy nhất trên toàn quốc về chất lượng sản phẩm, hàng hóa có khả năng xảy ra rủi ro trung bình và có khả năng xảy ra rủi ro cao. Đây sẽ là hạ tầng kỹ thuật chính thức, nơi cơ quan quản lý tác nghiệp, doanh nghiệp kê khai, người dân giám sát.
Thứ tư, Luật đã bổ sung quy định về hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) gồm tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp (bao gồm cả công nhận), kiểm tra và xây dựng chính sách. Đây là hạ tầng kỹ thuật của quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong nước, đẩy mạnh sự thừa nhận của quốc tế để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ toàn cầu. Không có hạ tầng chất lượng thì không thể có hàng hóa chất lượng cao, không thể hội nhập sâu, không thể đổi mới sáng tạo thành công. Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia trên nền tảng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan kiểm tra chất lượng, hải quan, truy xuất nguồn gốc, phản ánh người tiêu dùng và cảnh báo quốc tế để nâng cao năng lực giám sát và cảnh báo sớm.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng và Thứ trưởng Lê Xuân Định chụp ảnh lưu niệm với đoàn Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia bên hành lang Quốc hội.
Thứ năm, Luật đã bổ sung quy định quản lý chất lượng hàng hóa kinh doanh trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử, trong đó làm rõ trách nhiệm của người bán và trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục bị giao dịch điện tử trong việc bảo đảm chất lượng hàng hóa. Người bán phải công khai trung thực thông tin về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Chủ quản nền tảng số trung gian phải có biện pháp kiểm tra, xử lý đối với hàng hóa vi phạm pháp luật về chất lượng; thiết lập và vận hành hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Thứ sáu, Luật đã chỉnh sửa, bổ sung tăng chế tài, công khai vi phạm trên nền tảng số quốc gia để răn đe và phòng ngừa; bổ sung quy định những hành vi nghiêm cấm như thông tin, quảng cáo sai sự thật hoặc có hành vi gian dối về chất lượng, nguồn gốc và xuất xứ sản phẩm, hàng hóa; kinh doanh sản phẩm, hàng hóa không phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, đặc biệt trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử, gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng.
Thứ bảy, Luật đã bổ sung quy định hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để xuất khẩu như hỗ trợ tư vấn, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc tế; thử nghiệm, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng…
Thứ tám, Luật đã bổ sung quy định tăng cường sự tham gia của tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc tham gia khảo sát độc lập, thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường, kiến nghị và phối hợp kiểm tra. Điều này thúc đẩy giám sát xã hội và kiểm soát quyền lực công.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều chỉnh của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã có thể thực hiện chuyển hướng rõ ràng trong bốn cài đặt pháp luật: từ quản lý hành động chính xác nhắc nhở quản lý rủi ro, từ khuyến khích sang chế độ tài hợp lý, từ tiền kiểm tra hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ số. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả thi pháp luật mà còn góp phần giảm chi phí bổ sung cho doanh nghiệp, thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia và bảo đảm công bằng, minh bạch trên thị trường. Việc Quốc hội thông qua Luật này đã quyết định tâm trí thay đổi mới trong cơ chế hoàn thiện, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhanh chóng, bền vững và thân thiện với môi trường. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để Việt Nam từng bước nhập sâu hơn vào ứng dụng chuỗi toàn cầu và xây dựng một xã hội tiêu dùng có trách nhiệm, hướng dẫn phát triển vững chắc.
Nguyễn Thị Mai Hương – Trưởng ban, Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp
Thời gian qua, Quảng Ngãi đang tích cực triển khai mô hình năng suất xanh như một giải pháp then chốt thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Khái niệm năng suất xanh (Green productivity) do Tổ chức Năng suất Châu Á – APO đưa ra từ năm 1994. Năng suất xanh là sự kết hợp của các công cụ, kỹ thuật và công nghệ thích hợp để giảm các tác động đến môi trường từ các hoạt động, hàng hóa và dịch vụ của tổ chức, DN; đồng thời cho phép sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để nâng cao năng suất.
Trong bối cảnh tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt và môi trường chịu áp lực lớn từ các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế tuần hoàn trở thành chiến lược trọng tâm của nhiều địa phương trên cả nước. Quảng Ngãi không nằm ngoài xu hướng đó khi từng bước áp dụng các mô hình sản xuất tiết kiệm – tái sử dụng – tái chế tài nguyên nhằm kéo dài vòng đời sản phẩm và giảm thiểu chất thải ra môi trường.
Một trong những hướng đi hiệu quả mà tỉnh đang đẩy mạnh chính là mô hình năng suất xanh – phương pháp quản lý tổng hợp sử dụng các công nghệ và kỹ thuật thân thiện môi trường để vừa nâng cao hiệu quả sản xuất, vừa giảm tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.
Nhờ áp dụng năng suất xanh, giá trị sản phẩm ngành nông nghiệp tại tỉnh được tăng lên đáng kể
Tại Quảng Ngãi, năng suất xanh đang được triển khai ở nhiều cấp độ và lĩnh vực. Trong nông nghiệp, mô hình này giúp gia tăng giá trị sản phẩm mà vẫn bảo đảm an toàn sinh thái. Đơn cử, các sản phẩm OCOP như chanh hữu cơ Đức Phú hay dầu gội thảo dược Đức Nhuận đã ứng dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, góp phần giảm chi phí đầu vào, đồng thời kéo dài vòng đời của nguyên liệu nhờ tái sử dụng phụ phẩm.
Theo thống kê từ UBND tỉnh, toàn tỉnh hiện có hơn 280 sản phẩm OCOP. Nhờ ứng dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng, một số hộ nông dân đã chế biến sâu, tăng giá trị sản phẩm lên gấp 2-3 lần so với nguyên liệu thô. Đây là minh chứng rõ ràng cho tiềm năng của mô hình năng suất xanh trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại địa phương.
Đối với ngành dệt may, công ty TNHH XDD Textile là một trong những DN trong tỉnh đẩy mạnh việc áp dụng năng suất xanh. Công ty đã triển khai các hệ thống quản lý, công cụ 5S, MFCA vào trong mọi khâu sản xuất sợi, từ đầu vào đến hoàn thiện sản phẩm đầu ra. Nhờ đó, năm 2024, công ty tiết kiệm khoảng 750 tấn bông so với năm trước, trong khi sản lượng sản xuất của công ty đạt hơn 53 nghìn tấn sợi, vượt 1.300 tấn so với kế hoạch đề ra.
Mặc dù khái niệm về năng suất xanh ngày càng phổ biến, nhiều doanh nghiệp trong tỉnh vẫn còn lúng túng và chưa nắm bắt đầy đủ về mô hình này. Tuy nhiên, với chiến lược đúng đắn và sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, mô hình năng suất xanh đang từng bước phát huy hiệu quả, mở ra hướng đi mới cho phát triển kinh tế tuần hoàn tại Quảng Ngãi. Đây không chỉ là giải pháp bảo vệ môi trường, mà còn là nền tảng giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm, tạo sinh kế bền vững cho người dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển toàn diện của địa phương.
ISO 9000 không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam cải thiện bên trong mà còn mở cánh cửa bước ra thị trường thế giới một cách bài bản và vững chắc.
Tiêu chuẩn ISO 9000 giúp doanh nghiệp nâng cao nội lực, mở rộng thị trường. Ảnh minh họa.
ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý chất lượng, đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng và vận hành các quy trình quản lý hiệu quả. Nhờ vào hệ thống tài liệu, hướng dẫn và định nghĩa chuẩn mực, doanh nghiệp dễ dàng kiểm soát rủi ro, đo lường hiệu quả và liên tục cải tiến trong hoạt động hàng ngày.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam, việc áp dụng ISO 9000 mang lại nhiều giá trị thiết thực cả về nâng cao nội lực lẫn mở rộng thị trường. Tại Công ty giầy Thượng Đình, sau khi áp dụng ISO 9000, mọi hoạt động của công ty đều tiến triển, khoa học, mang lại năng suất và hiệu quả công việc cao, tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước từ 15% đến 20%. Hay tại Tổng công ty Dệt may Việt Nam, nhờ áp dụng ISO 9000 đã giúp doanh nghiệp tạo được niềm tin với bạn hàng quốc tế về chất lượng sản phẩm.
Đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ISO 9000 không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là “tấm vé thông hành” để gia nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nơi mà yêu cầu về chất lượng ngày càng khắt khe.
Các chuyên gia đánh giá, khi một doanh nghiệp đạt chứng nhận ISO 9000, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp đang vận hành theo một hệ thống quản lý chất lượng được công nhận toàn cầu, là một điểm cộng lớn trong đàm phán, đấu thầu hoặc xuất khẩu. Có thể nói, ISO 9000 không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam cải thiện bên trong mà còn mở cánh cửa bước ra thị trường thế giới một cách bài bản và vững chắc.
Việc áp dụng năng suất xanh không chỉ giúp doanh nghiệp giảm lãng phí, tiết kiệm chi phí sản xuất mà còn góp phần bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
TS Nguyễn Tùng Lâm – Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam (VNPI) cho biết, trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, việc áp dụng năng suất xanh là hướng đi tất yếu để doanh nghiệp duy trì lợi thế cạnh tranh và đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.
Áp dụng mô hình năng suất xanh giúp giảm phát thải CO₂, hướng tới sản xuất bền vững và thân thiện với môi trường.
Ngay từ năm 1998, Trung tâm Năng suất Việt Nam lúc đó (nay là Viện Năng suất Việt Nam) đã triển khai các dự án thí điểm về năng suất xanh, với sự tài trợ của Tổ chức Năng suất châu Á (APO). Một trong những điểm sáng của chương trình là việc xây dựng các mô hình năng suất xanh tại cộng đồng ở hơn 20 tỉnh, thành phố, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Thay vì chỉ giới hạn trong nhà máy hay khu công nghiệp, chương trình được mở rộng sang khu vực nông thôn, áp dụng các công cụ năng suất để giải quyết vấn đề thực tiễn như thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường, xử lý rác thải, sử dụng năng lượng hiệu quả.
Kết quả mang lại rất rõ rệt. Người dân được tiếp cận kỹ thuật biogas, trạm cấp nước tập trung, kỹ thuật IPM (phòng trừ dịch hại tổng hợp), các mô hình sản xuất xanh như trồng nấm rơm, nuôi giun, bếp tiết kiệm năng lượng, làm bún sạch… Chất lượng môi trường sống cải thiện, đồng thời hình thành ý thức trách nhiệm cộng đồng trong sản xuất, tiêu dùng.
Trong khối doanh nghiệp, năng suất xanh đã chứng minh hiệu quả về chi phí. Tại Công ty Cổ phần Giấy Hiệp Thành, sau khi áp dụng mô hình năng suất xanh, lượng phế phẩm giấy giảm 4%, chi phí điện và nhiên liệu (vỏ điều) giảm tới 140 triệu đồng/năm. Công ty TNHH rau quả Hùng Hậu giảm tới 15% điện và nước tiêu thụ, giảm từ 33-46% lượng phế phẩm, đồng thời năng suất lao động tăng nhờ tinh gọn quy trình sản xuất.
Tuy nhiên, theo PGS.TS Vũ Hoàng Nam – Trưởng phòng Quản lý khoa học (Trường Đại học Ngoại thương), phần lớn các dự án năng suất xanh mới chỉ được áp dụng tại doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Trong khi đó, các doanh nghiệp siêu nhỏ – chiếm phần lớn tại Việt Nam – lại chưa được tiếp cận đầy đủ thông tin hoặc thiếu năng lực triển khai.
Một nguyên nhân khác là việc áp dụng năng suất xanh hiện nay chủ yếu mang tính khuyến khích, chưa có chế tài bắt buộc. Trong khi đó, tại nhiều quốc gia, tiêu chuẩn sản xuất xanh đã trở thành yêu cầu tối thiểu để doanh nghiệp được tiếp cận chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là trong các ngành chế biến nông sản, dệt may, thủy sản…
Hiện Việt Nam đã có hệ thống tiêu chuẩn và công cụ hỗ trợ như ISO 14000 về quản lý môi trường, ISO 50001 về năng lượng, Global GAP cho sản xuất nông nghiệp, cùng các công cụ quản trị như 5S, 3R… Tuy nhiên, việc ứng dụng trong thực tiễn còn manh mún, thiếu kết nối và chưa có cơ chế giám sát đồng bộ.